Những câu chuyện hay về Lễ Phục Sinh

1.CHÚA BỊ ĐÓNG ĐINH:
Mùa đông Âu Châu thời tiết năm nay khá lạnh, ở miền nam Đức về đêm đôi khi nhiệt độ xuống -20 độ C, những cánh hoa tuyết không tan đọng hai bên đường cao quá đầu gối, các hồ nước bị đóng băng, những cánh đồng rộng mênh mông toàn màu trắng của tuyết, những giàn nho, giàn đường hoa thảo (Hopfen) không lá đứng trơ vơ trong gió lạnh, từng đàn quạ đen bay lượn tìm mồi trong bầu trời mù ảm đạm, rừng thông già rủ lá buồn tênh.

Mọi người đang hướng về mùa xuân bắt đầu vào ngày 20 tháng 3 trời nắng ấm, sáng tinh sương mặt trời chưa ló dạng đã nghe tiếng chim hót véo von trên những cành cây đang trở mình nở nụ. Mùa phục sinh đến kỷ niệm ngày Chúa Jesus Kitô được sống lại (Auferstehung). đồng hồ phải đổi thêm một giờ vì ngày dài đêm ngắn, nước Đức là quốc gia theo Đạo Thiên Chúa Giáo, bắt đầu thứ Tư lễ tro (Aschenmittwoch / Ash Wednesday ngày 09.02.05), trong thánh lễ Linh mục ghi dấu tro lên trán Tín đồ và đọc „Hỡi người, hãy nhớ mình từ tro bụi và sẽ trở về với tro bụi „ghi dấu tro để nói lên sự khiêm nhường và nhắc nhở Tín đồ về sự sống sẽ qua đi.

Bước vào mùa chay (Fastenzeiten) 40 ngày, Tượng Chúa phủ khăn đen, Linh Mục làm lễ mặc áo màu tím. Giáo hội kêu gọi con chiên sống với lòng bác ái, suy niệm, cầu nguyện hãm mình và sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi để được cứu rỗi, Ăn chay  kiêng thịt vào ngày thứ sáu tuần thánh, các loại cá được phép ăn.  Nến thắp sáng từ đêm phục sinh cho đến các ngày lễ Chúa lên trời (Christi Himmelf /Ascension day và  lễ Hiện xuống Pfingstsonntag/ Whit Monday là biểu tượng của sự sống lại

2.NGUỒN GỐC LỄ PHỤC SINH:
Theo phong tục và dân tộc tính ở các nước Trung Âu Châu (Đức, Pháp, Áo, Hòa Lan, Bỉ, Lục Xâm Bảo, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha.. ) sau mùa đông giá lạnh, xuân về có ánh nắng mặt trời ấm áp làm đời sống vui tươi hơn. Mùa phục sinh bắt đầu vào ngày rằm tháng đầu của mùa xuân.

Ngày lễ nầy bắt nguồn từ ngày Chuá Jesus bị đóng đinh trên thánh giá  (Karfreitag / Good Friday) và sống lại (Auferstehung/ resurrection) biểu tượng cho sự sống (Leben/ live) và sự phì nhiêu phong phú (Fruchtbarkeit/ fertility) thời xa xưa người ta gọi lễ hội mùa xuân (Frühlingsfest / spring festival) hay „Ostarum“ người Đức gọi là „Ostara“ và danh từ „Ostern/ Easter“ nguồn gốc từ chữ „Ost/ East“ hướng về phương đông mùa xuân mặt trời sắp lên, người Do Thái gọi ngày lễ nầy là „Paschafest“ Người Ai Cập (Ägypter) gọi là „Osterlamm/ paschal lamb)“ cũng nhằm ngày rằm đầu tiên mùa xuân họ giết cừu ăn mừng được giải phóng khỏi sự đàn áp, thoát khỏi thân phận nô lệ

Hội nghị về Tôn giáo ở Niazäa năm 325 công nhận lễ hội mùa xuân, là ngày lễ phục sinh sau khi Chúa sống lại cho đến năm 1094 Oster Fest vui chơi 4 ngày rồi sau đó 3 ngày, nhưng đến nay chỉ còn lại 2 ngày. Lễ phục sinh năm nay  vào ngày thứ Sáu 25 và  thứ Hai ngày 28 tháng 3. Hằng năm vào ngày thứ Sáu lễ phục sinh Osterfeiertagen Đức Giáo Hoàng làm lễ tại Petersdom ở Roma gọi là „Urbi et orbi“ ở Đức theo phong tục vào Chúa nhật phục sinh (Ostersonntag/ Easter Sunday) cha mẹ hay ông bà thường đưa trẻ con đi tìm trứng „Ostereier suchen“ ở nơi nào đó mà các Hiệp hội tổ chức giấu trứng gà chín tô nhiều màu trong các bụi cây bờ cỏ.. đây cũng là một thú vui đi dạo thưởng thức nắng ấm đầu mùa. Nhiều gia đình dành sự ngạc nhiên cho các cháu nhỏ, cha mẹ thường mua rổ đan bằng mây hay tre lót những sợi giấy màu xanh làm cỏ để trứng và các con thỏ làm bằng chocolate giấu trong vườn hay nhà các cháu đi tìm. Những buổi tiệc vui gia đình Đức thường ăn thịt cừu nướng „Osterlamm“

3. LỬA PHỤC SINH (Osterfeuer/ Easterfire):
Người ở vùng quê sống đời nông nghiệp vui mừng mùa đông giá lạnh đi qua, xuân đến bắt đầu gieo trồng rồi gặt hái, nguồn gốc lửa phục sinh ngày xưa được đốt lên từ những cánh đồng trong đêm đầu tiên phục sinh, từ đó sẽ thắp lên ánh nến phục sinh. Ngọn lửa sưởi ấm mùa đông dài lạnh lẽo vì thời xa xưa không đủ tiện nghi như ngày nay có lò sưởi điện. Người Ai Cập từng tôn thờ thần mặt trời xem ánh lửa như thần thiêng. miền bắc Na Uy không có mặt trời, mặt trời tái xuất hiện vào cuối tháng giêng khoảng 4 phút, học sinh ở Trombo nghỉ học một ngày để chào mừng ánh mặt trời, ngược lại mùa hè đêm 23 tháng 7 thì mặt trời không hề lặn, không có mặt trời thì trên trái đất nầy sẽ không có sự sống, vì thế ánh lửa phục sinh cũng là nguồn sống của con người, lửa phục sinh tượng trưng cho ánh sáng mới mà Chúa đã mang đến cho chúng ta, từ năm 750 ở Pháp đã có phong tục đốt lửa phục sinh, thời sơ khai người ta dùng hai hòn đá đánh cho xẹt ra lửa, rồi từ từ biết dùng khí đốt. Đến thế kỷ thứ 11 ở Đức đã dùng ánh lửa như một sự dâng hiến trong các nghi lễ về tôn giáo.

4. NẾN PHỤC SINH (Osterkerze/ Eastercandle):
Các Tôn giáo đều sử dụng nến (đèn cầy) đốt sáng trên bàn thờ, ánh sáng nến  có thể đem vào nơi tối tăm, năm 384 lần đầu tiên ở Piacenca thánh Hieronymus (347- 419) viết trong thư tông đồ về ý nghiã biểu tượng của nến phục sinh là sự sống .đến năm 417 Giáo Hoàng Zosimus cùng công nhận biểu tượng đó là sự chết và sống lại của Chúa Jesus. Từ thế kỷ thứ 7 thánh điạ La Mã công nhận và sử dụng nến phục sinh cho đến thế kỷ thứ 10 được các quốc gia theo Thiên chúa sử dụng cho đến thế giới ngày nay.

Nến Phục sinh được đốt lên từ đống lửa trước nhà thờ trong đêm phục sinh được thánh hóa theo phong tục lâu đời. Nến đốt sáng được rước vào nhà thờ, tín đồ sẽ thắp nến của mình từ cây nến phục sinh cả nhà thờ được rực sáng bởi ánh nến là dấu hiệu của sự sống, chiến thắng được tội lỗi và sự chết. Mọi người reo mừng “Christus ist das Licht- Gott sei ewig Dank” Ngày phục sinh cây nến có ghi hình thánh giá hay khắc tia ánh sáng mặt trời hay dòng nước.

Trên nến có cắm 5 dấu đinh, phía trên ghi mẫu tự Alpha và bên dưới mẫu tự Omega với ý nghiã đầu tiên và cuối cùng của tiếng Hy Lạp, tượng trưng cho chúa Jesu là khởi đầu và cuối cùng, chung quanh cây nến ghi năm để nói lên, Chúa Jesus là Đấng cứu độ từ khởi đầu, hôm nay và mãi mãi. Trong các lễ rửa tội, hay lễ an táng nến phục sinh được đốt sáng.

5.TRỨNG (Ostereier/ Easter egg):
Từ thế kỷ thứ 12, Thứ bảy phục sinh Ostersamstag người ta nấu trứng gà chín và sơn màu sắc sặc sở với những ý nghiã đẹp : màu đỏ tượng trưng cho may mắn, màu xanh cho hy vọng, trẻ trung vô tội, màu vàng cho sự khôn ngoan, màu trắng cho thanh bạch màu cam cho sức mạnh … bỏ trứng trong giỏ với những thức ăn khác mang đến nhà thờ. Trứng còn biểu tượng cho sự khởi nguyên của sự sống, bởi vậy theo truyền thuyết người chết được tẩm liệm người ta để trong quan tài một cái trứng biểu tượng cho cứu chuộc và sự sống đời sau, trên quan tài người chết thường cúng cơm có trứng gà.  Người ta quan niệm con gà con tự mổ vỏ trứng chui ra, Chúa Jesu bị hành hạ đánh đập qua những đoạn đường dài khổ cực vác thánh giá rồi bị đóng đinh chết an táng trong ngôi mộ đá đã đập vỡ cửa mồ và sống lại.

6. THỎ PHỤC SINH (Osterhase/ Easter bunny):

Các chuyện thần thoại hay trong dân gian đều có chuyện vui giúp đời như con thỏ là con vật hiền lành không làm hại sinh vật nào.Thỏ không có khả năng tấn công hoặc gây nguy hại cho các loài động vật khác, nhưng lại thường xuyên bị những con như sói, báo, chim ưng, cú… uy hiếp. Chính vì vậy, thỏ thường xuyên phải vểnh tai để chú ý xem bốn phía chung quanh có động tĩnh gì không, nhằm đề phòng bất trắc. Trong hoàn cảnh khắp nơi là kẻ địch như vậy, nên đôi tai của thỏ đặc biệt to dài nghe rất thính để chạy trốn khi nghe tìếng động trước sự tấn công.

Nữ thần ái tình Hy Lạp „Liebesgöttin Aphrodite“ cho đến NữThổ Thần Nhật nhĩ Nam „Erdgöttin Holda“ đều yêu chuộng thỏ. Ở Byzanz Tây Ban Nha các nhà biểu tượng học xem biểu tượng con thỏ là một Thiên sứ. Mãi cho đến thế kỷ thứ 16 nhiều điạ phương đã quan niệm các con thú khác như cáo, gà, cò chim cu, hạt, cú đã mang trứng đi giấu ..Thỏ sống cách đây 55 triệu năm bộ xương thỏ vừa được khai quật ở Mông Cổ. Gomphos elkema, tên của con vật, là thành viên cổ nhất trong họ nhà thỏ từng được tìm thấy. Phân tích Gomphos đã cho thấy, thỏ hiện đại, cùng với các loài thú khác, đã xuất hiện sau thời kỳ khủng long. Các nhà  sinh vật  học cho biết thỏ sinh sản nhiều, nhưng chú thỏ phục sinh xuất hiện từ năm 1678 do một giáo sư y khoa Von Georg Franck ở Franckenau dạy đại học Heidelberg công nhận thỏ là biểu tượng của sự sinh nở phong phú, một con thỏ mẹ hàng năm có thể đẻ 20 thỏ con, mùa xuân với cỏ non làm thực phẩm cho các chú thỏ con vừa chào đời, vào tận trong vườn để tìm thức ăn, trứng phục sinh được sơn nhiều màu, người lớn đã cắt nghiã do các chú thỏ mang tới, từ đó có thỏ và trứng. Từ thành phố Zurich Thuỵ Sĩ là nơi phát họa ra chú thỏ và cái trứng trong mùa phục sinh. Sau đó các hãng sản xuất kẹo bánh, không bỏ cơ hội buôn bán từ năm 1875 sản xuất những chú thỏ bằng schololate làm bằng tay, mãi cho đến đầu thế kỷ 20 mới sản xuất bằng máy theo  ky~ nghệ

7.HOA PHỤC SINH:

Người Đức thường dùng cành cây tươi, treo những cái vỏ trứng gà, sơn nhiều màu và những con thỏ nhỏ bằng schocolat cho trẻ em, và các loại hoa thường dùng như Thủy tiên Osterglocken/daffodil; Uất kim cương Tulpen/Tulip; Phong tín tử Hyazinthen/hyacinth; Cúc đồng Gaenebluemchen/ dasiy; Bồ công anh Loewenzahn/ dandetion; Mao cấn Hahnenfuss/ buttercup…

Mùa phục sinh bên quê nhà thì nắng ấm, năm nay nhiều nơi hạn hán không đủ nước cho các vụ mùa, thời tiết mỗi lục địa khác nhau, nhưng những mùa lễ Giáng Sinh, Phục sinh đều giống nhau. Trước 1975 Việt Nam Nam Bắc chia đôi, sinh hoạt đời sống về an sinh bị khó khăn, những ngày lễ cũng giới hạn với giai đọan chiến tranh. Ngày nay Việt Nam thanh bình thường tổ chức các lễ hội như đi Chùa Hương, giổ Tổ Hùng Vương, Trung Thu, Giáng sinh, lễ hoa Đà lạt, lễ tế Nam Giao và nhiều lễ hội khác ở các điạ phương tổ chức linh đình nhằm phục tồn truyền thống văn hoá cổ truyền, ngay cả ngày lễ tinh yêu (Valentinstag) trước đó Việt nam chưa từng thực hiện, nhưng ngày nay các chàng dù nghèo cũng dành tiền mua cho người yêu một đóa hoa hồng, một món quà nhỏ, như người xưa đã nói „phú quý sinh lễ nghiã“.

Hy vọng đời sống phát triển về kinh tế dân trí và dân quyền cũng phát triển theo, để quê hương chúng ta bớt nghèo đói và lạc hậu. Các nước Tây phương vật chất đầy đủ, sau lễ Giáng Sinh Tết, ngày tình yêu… lễ hội hoá trang, tiếp đến lễ Phục sinh các siêu thị lớn, nhỏ đều bày bán những con thỏ bằng Chocolat, trứng sơn đủ màu và những thiệp Chúc Mừng Phục Sinh. Frohe Ostern / Happy Easter.
Chúa sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6: 3- 4) để an ủi và đem hy vọng cho những ai buồn sầu vì số phận sẽ phải chết hay đau khổ, khi có người thân yêu vừa mất. Theo luật tạo hoá con người phải chết. Nhưng nhân loại hy vọng được sống lại như Chúa sau khi phải trải qua cái chết của thân xác..

Tài liệu tham khảo:

Ostergeschichte- Quelle Johannes  Ver 20  & 21

Nach den Evangelisten Johannes / Universal Lexion Faktum

8. LƯỢC DỊCH LỊCH SỬ NGÀY CHÚA SỐNG LẠI:

Lễ Lá Palmsonntag Chúa nhật Chúa Jesus vào thành Jersusalem để làm vua thiên hạ, thời gian chưa đầy một tuần lễ, Chúa đã làm lễ rửa chân cho các môn đệ và thành lập Hội Thánh đầu tiên ở trần gian, dọn mình trở về với Chúa Cha như lời Thánh kinh.

Biến cố, các đạo trưởng, Caipha và Hội đồng Do Thái muốn giết Chúa trước ngày lễ Vượt Qua, nhưng thời ấy người Do Thái bị La Mã rút quyền lên án tử hình..  người Do Thái đã mua chuộc Juda môn đệ phản Thầy bắt Chúa Jesus, vào tối thứ năm và sáng thứ sáu các trưởng tế, luật sĩ và kỳ lão đem chúa đến xử ở dinh quan Pontius Pilatus (Philato) hôm đó là ngày áp lễ Vượt Qua… Nhưng quan tổng trấn La Mã Pilatus yếu hèn không ngãn ngừa ðýợc vụ án, ðể ngýời Do Thái ðã đánh đập, hành hạ Chúa trước khi đóng đinh… Dấu tích xưa được ghi lại ở ngoại ô thành Jerusalem có núi sọ người Do Thái gọi là Golgotha, Đồi nầy làm nơi ném đá những người bị xử phạt, Người La Mã cũng chọn nơi nầy đóng đinh các tội phạm.. Golgotha cũng là chặng đường cuối cùng khổ giá, trên đường đến núi sọ có Mẹ Maria cùng các môn đệ yêu quý, bà thiếu phụ Veronica dâng  khăn mới lau mặt Chúa, (chiếc khăn đó in rõ thánh nhan Ngài, khăn đó còn lưu lại trong bảo tàng viện ở Roma ?) Chúa vác thánh giá tới đỉnh đồi, trời đã đúng ngọ, Chúa bị đóng đinh với bản án „Jesus vua Do Thái „..Mẹ Maria buồn rầu đau khổ chứng kiến cảnh đánh đập và đóng đinh, trái tim mẹ đau nhói khi nhìn những giọt máu trên thánh giá rơi xuống…

Lời nói cuối cùng của Chúa „Lạy cha, Con phó linh hồn con trong tay Cha“  Rồi ngài trút hơi thở lúc trời đã về chiều..Theo luật La Mã xác của tội phạm không được chôn cất để ở pháp trường cho thú dữ chim ăn. Ông Giuse đã xin án táng hình hài Chúa Jesus trước ngày lễ Vượt Qua theo phong tục người Do Thái cấm để xác chết trên thập giá.. Nên được chấp nhận trước khi hạ thánh giá, những người lính canh pháp trường lấy dáo dâm vào xác cho tới tim Chúa. Ông Juse mẹ Maria và các môn đệ đã mai táng Chúa trong một hang đá, ngoài có tảng đá lớn lấp và gắn kín khi sau khi mai táng, quân linh chính quyền  canh giữ 3 ngày…

Ba ngày đã qua, sáng sớm còn đọng những giọt sương mai lóng lánh dưới ánh mặt trời mùa xuân bừng dậy, bà Magdala người được Chúa cứu khỏi bệnh tâm thần, đi thăm mộ Chúa để biểu lộ lòng nhớ ơn và phát hiện tảng đá lấp mộ Chúa đã   không còn nguyên như cũ, bà nghĩ ai đó đem xác Chúa đi. Bà tìm gặp Petrus và Gioan và mong muốn các ông sớm tìm ra ai lấy xác Chúa để đâu. Maria von Magdala chưa hiểu đàng sau tảng đá được lăn ra kia ẩn chứa một mầu nhiệm sự sống lại. Vì thế, bà cùng với hai môn đệ vội vã chạy đi kiếm tìm…

Ông Gioan chạy đến mộ trước bởi sức trai trẻ, môn đệ Chúa thấy những gì Maria von Magdala báo tin, ông còn phát hiện thêm những hiện tượng bất thường, những băng vải còn đó chưa hẳn xác thầy đã bị đánh cắp. Sau đó không lâu, Petrus phát hiện các băng vải, khăn che đầu được xếp lại gọn gàng. Những hiện tượng này là những lý chứng có thể trả lời cho những nghi ngờ của Maria, nếu có âm mưu trộm xác, kẻ trộm sẽ lợi dụng thời khắc lính canh thiếp ngủ- rất ngắn ngủi, thì không thể nào thoải mái sắp xếp các băng vải liệm cách gọn gàng như thế được, những bằng chứng về sự Phục sinh của Chúa, nhưng nó lại là những dấu chỉ chứa đựng sự nhiệm mầu.

Petrus nhìn thấy tất cả nhưng không bình luận. Petrus cẩn trọng và dè dặt trước hiện tượng nầy phải có thái độ cẩn trọng trong mọi hoạt động; nhưng mặt khác, dựa vào kinh thánh, chúng ta biết lý do Petrus không bình phẩm là vì ông chưa hiểu “theo Kinh thánh, Đức Jesus phải chỗi dậy từ cõi chết”. Gioan đi vào mộ. Ông thấy và tin. Thông qua ngôi mộ trống và những vị trí gọn gàng của các băng vải liệm, Gioan đã đọc ra dấu chỉ về những thực tại siêu nhiên bằng con mắt đức tin. Đức tin và sự cảm nghiệm này một phần xuất phát từ trong cách quan sát và phân tích vấn đề, Gioan đã thâu gom những hiện tượng hữu hình, ông lượng định vấn đề để rồi đưa đến kết luận- dù không nói ra, một cách khoa học. Niềm tin đó dựa trên sự soi sáng của lý trí và tình yêu, xác của Thầy chả có ai lấy đi cả. Cái chết đã thất bại. Nó đã bị ánh sáng Phục sinh tướt đoạt. Niềm tin ban sơ này của ông sẽ dần dần được chính Đấng Phục sinh và Chúa Thánh Thần củng cố và hoàn thiện.

Bà Magdala khóc trong mồ, qua nước mắt bà thấy hai người ngồi trên phiến đá chỗ để xác Chúa , bà chưa biết đó là hai Thiên Thần và họ đã hỏi bà:

“Tại sao bà khóc ?“

Bà thưa „vì người ta đã lấy mất xác của Thầy tôi, và không biết họ để đâu?“ nói xong bà  nhìn lại phiá sau thấy Chúa đứng, nhưng bà không biết, Chúa hỏi bà : „ tại sao khóc và tìm ai ? „

Bà Magdala tưởng đó là người coi vườn của ông Giuse nên thưa „ thưa ông nếu ông đã cất xác của Ngài cho tôi biết để tôi chôn cất Chúa Jesus đã gọi tên bà thân mật :“ Maria Magdala „ nghe giọng quen thuộc lập tức nhận ra Chúa và bà toan giơ tay ôm chân Chúa nhưng Chúa đã phán:

-Đừng đụng đến Ta, vì Ta chưa lên cùng Cha Ta , con hãy về bảo các anh em  Ta thay Ta, Ta sẽ lên cùng Cha Ta và Cha cùng các con, cùng Chúa Ta và Chúa các con. Ruehre mich nicht an! Denn ich bin noch nicht aufgefahren zum vater. Gehe aber hin zu meinen Bruedern und sage ihnen ich fahre auf zu meinem Vater und zu eurem Vater, zu meinem Gott und zu eurem Gott.

Nói xong Chúa biến mất  bà Magdala  vui mừng chạy về báo tin cho các môn đệ biết Chúa đã phục sinh, nhưng họ không tin và cho là bà nói sảng, ngoại trừ  Petrus và Gioan đã tin……..

Mừng lễ Chúa Phục sinh để nhắc nhớ chúng ta thêm niềm tin. Thánh Phaolô đã nói nếu Chúa không phục sinh, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng và cả niềm tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15, 14)

Theo tài liệu các đạo trưởng người Do Thái muốn giết Chúa. Tổng trấn Philato thất vọng truyền lấy nước rửa tay và nói “ta sạch tội về máu người đạo đức này” Nhưng người Do Thái đã minh định rằng. “Chẳng việc gì Quan cứ yên tâm, Sau nầy máu nó có đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi chúng tôi cam chịu…”

Suy niệm lời thánh kinh, nhìn lại lịch sử người Do Thái đã mất nước lang thang xứ người, 60 năm qua hơn 6 triệu người Do Thái vô tội bị Hitler ra lệnh tàn sát!! Và ngày nay chiến tranh và khủng bố, máu con cháu  Do Thái vẫn còn tiếp tục đổ .

Martino Duc

5 Phút cho Lời Chúa Tháng 04-2015

Mục Lục

Ngày 1 – 04: Trang 1

Ngày 05 – 11: Trang 2

Ngày 12 – 18: Trang 3

Ngày 19 – 25: Trang 4

Ngày 26 – 30: Trang 5

* * *

01/04/15                                         THỨ TƯ TUẦN THÁNH

                                                                           Mt 26,14-25

CÒN TỒI TỆ HƠN SỰ CHẾT…

Người đáp: “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy.” (Mt 26,23)

Suy niệm: Đối với nhiều người, điều còn tồi tệ hơn cả cái chết là sự phản bội. Họ có thể hình dung ra cái chết, nhưng không thể hình dung nổi sự phản bội, nhất là sự bội phản của người thân yêu. Đức Giê-su thì khác, Ngài biết rõ sự phản bội của Giu-đa dù ông đã khôn khéo che dấu hành vi tội ác của mình. Ông có thể qua mặt các bạn đồng môn, nhưng không qua được mắt Thầy mình. Thầy của ông có thể dùng nhiều biện pháp để loại trừ ông, hoặc đích thân trừng trị, hoặc báo tin cho các môn đệ khác và chắc chắn họ sẽ không để ông yên thân. Thế nhưng, thứ “vũ khí” duy nhất mà Ngài dành cho ông là lời mời gọi của tình thương, tiếng gọi của tình nghĩa thầy trò.

Mời Bạn: Năm này qua năm khác, bạn có thể che dấu tội lỗi mình với người chung quanh, ngay cả với những người thân trong gia đình hay cộng đoàn. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng bạn không thể nào che dấu trước mặt Thiên Chúa. Ngài biết rõ mọi tội lỗi kín đáo của bạn và đang âm thầm mời gọi bạn hoán cải, nhất là trong Tuần Thánh này.

Sống Lời Chúa: Trong Tuần Thánh năm nay tôi sẽ nhìn thẳng vào một tội lỗi kín đáo lâu nay của mình, xác tín Chúa biết, đang mời tôi chừa bỏ tội ấy. Tôi sẽ cố gắng đáp lại lời mời gọi này.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đau đớn trước sự bội phản của ông Giu-đa, nhưng không từ bỏ ông, trái lại luôn dùng tình yêu thương để mời gọi ông trở lại. Chúng con cảm phục sự khoan dung, nhân hậu của Chúa. Xin cho chúng con thật sự hoán cải, từ bỏ một tội lỗi đang kéo ghì mình xuống, để được thật sự sống lại với Chúa. Amen.

02/04/15                                      THỨ NĂM TUẦN THÁNH

                                                                            Ga 13,1-15

YÊU ĐẾN CÙNG

Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng. (Ga 13,1)

Suy niệm: “Yêu đến cùng”, một mặt muốn diễn tả sự chung thủy của tình yêu – yêu cho đến chết; mặt khác, “yêu đến cùng” còn muốn nói lên tính vượt trội, nghĩa là vượt trên tất cả những gì con người có thể tưởng tượng được để bày tỏ tình yêu. Đức Ki-tô đã yêu thương những kẻ thuộc về Ngài bằng một tình yêu như thế. Để biểu lộ tình yêu cao độ này: Ngài đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ; Ngài lập Bí tích Thánh Thể để trao ban chính Thịt và Máu của Ngài; và Ngài lập Bí tích Truyền Chức Thánh để tiếp tục công cuộc trao ban cho đến cùng. Khi trao ban những gì cao quí nhất cho những kẻ thuộc về mình, Đức Ki-tô muốn biến họ thành một cầu nối để tình yêu của Ngài được lan tỏa cho đến cùng, Ngài mời gọi họ: “Anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”.

Mời Bạn: Làm như Thầy đã làm không chỉ lập lại các nghi thức mà phải yêu như Ngài đã yêu, là dám hiến thân phục vụ tha nhân để diễn tả một tình yêu cho đến cùng.

Sống Lời Chúa: Siêng năng tham dự Thánh lễ và kết hiệp với Chúa Ki-tô trong Bí tích Thánh Thể để thực sự được nuôi dưỡng bởi tình yêu của Ngài và có thể yêu thương như Ngài đã yêu.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Ki-tô, chúng con đang sống trong năm Phúc Âm Hóa cộng đoàn, Mẹ Hội Thánh muốn chúng con quay về với tình yêu của Chúa để trước hết được thánh hóa, hầu có thể yêu tha nhân như Chúa đã hiến thân mình để yêu thương chúng con.

03/04/15                                       THỨ SÁU TUẦN THÁNH

                                                                       Ga 18,1-19,42

MỌI TỘI NHÂN DƯỚI CHÂN THÁNH GIÁ

“Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập.” (Ga 19,36)

Suy niệm: Một chi tiết quan trọng mà chỉ mình Gio-an để ý: đó là quân lính không đánh giập ống chân Chúa Giê-su vì Chúa đã chết, nhưng lại đâm ngọn giáo vào cạnh sườn Ngài, bấy giờ máu và nước chảy ra. Như vậy, sự chết của Chúa trên cây thánh giá phát sinh sự sống. Nước là sự sống, nơi nào có nước, nơi ấy có sự sống. Nước cũng là biểu tượng của bí tích thanh tẩy (rửa tội), bí tích đem lại sự sống mới cho ta. Máu là biểu tượng của sự sống, mất máu là mất sự sống, truyền máu là thông truyền sự sống. Máu của Đức Giê-su còn quý giá hơn nữa, vì đem lại sự sống trường sinh: “Ai uống máu này thì có sự sống đời đời” (Ga 6,54). Nước từ thánh giá rửa sạch tội ta, máu Chúa đổ ra trên thánh giá để cứu chuộc ta.

Mời Bạn: Máu và nước từ thân xác Đức Giê-su trên cây thánh giá đem lại sự sống cho bạn. Bạn không chỉ được mời gọi nhìn lên cây thánh giá ấy với lòng tin tưởng, nhưng còn được mời gọi vác thánh giá cuộc đời mình. Nhiều Ki-tô hữu chỉ thích thánh giá cài trên khuy áo, đeo trên ngực, chứ không thích vác thánh giá trên vai. Còn bạn thì sao?

Sống Lời Chúa: Tôi cảm nhận sâu sắc lòng yêu thương của Chúa khi chịu treo trên thánh giá. Vì thế, trong mọi hoàn cảnh, tôi vẫn kiên trung loan báo tình thương của Chúa Giê-su chịu đóng đinh cho những người lân cận.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho con không làm phiền lòng Chúa nữa, để khi hôn thánh giá Chúa, con có thể yêu mến Chúa hết lòng, quyết tâm từ nay sống cho Chúa và vì Chúa. Xin cho con mở miệng nói được khi hôn thánh giá: “Lạy Chúa, Chúa biết con yêu Chúa.”

04/04/15                                       THỨ BẢY TUẦN THÁNH

                                                                              Mc 16,1-8

CHÚA ĐÃ PHỤC SINH

Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa.(Mc 16,6)

Suy niệm: Để cảm nghiệm mầu nhiệm Phục Sinh, chúng hãy dừng lại thật lâu bên mộ Chúa để cùng với ba người phụ nữ trong Tin Mừng sau một đêm thấp thỏm không ngủ được, ngay khi trời vừa tảng sáng, đã vội vã chạy ra mộ, với dầu thơm để ướp xác Thầy. Nhưng khi đến nơi, các bà không thấy một cái xác để ướp dầu thơm, mà các bà đã gặp chính Đức Giê-su, Đấng Phục Sinh. Quả thế, Chúa Giêsu đã sống lại thật rồi. Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết. Sự chết không còn làm gì được Ngài. Từ đây, sự phục sinh của Đức Giêsu đã trở nên nguồn mạch sự sống và là sự sống lại của mỗi người chúng ta.

Mời Bạn: Thánh Phao-lô xác tín: “Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em (1Cr 15,17). Đã có bao nhiêu lễ Phục Sinh qua đi, nhưng thử hỏi, điều đó có giúp ích gì cho cuộc sống của bạn hôm nay? Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh, mời bạn hãy “giết chết” những gì là tính mê nết xấu trong con người cũ; đó là lòng ghen ghét, đố kỵ… để sống lại trong Chúa Ki-tô là con người mới của tình yêu thương, bao dung và tha thứ. Chỉ có như vậy, việc bạn mừng lễ Phục Sinh mới thực sự có ý nghĩa và mang lại cho bạn niềm hy vọng được Phục Sinh với Chúa mai ngày.

Sống Lời Chúa: Sống hiền lành và bác ái là dấu chỉ tôi đã sống lại trong con người mới với Chúa Ki-tô phục sinh.

Cầu nguyện: Lạy Đấng là Nguồn Mạch Sự Sống, xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con sống tràn ngập yêu thương, bao dung và tha thứ. Amen.

Suy Niệm Chúa Nhật Phục Sinh Năm B

Easter Sunday
Reading I: Acts 10:37-43
II: Col 3, 1-4; Gospel John 20:1-9
Chúa Nhật Phục Sinh
Bài Đọc I: Công Vụ Tông đồ 10:37-43; II: Colosse 3, 1-4;  GIoan 20, 1-9
Interesting Details

· This passage opens the last part of John’s Gospel (ch.20): the resurrection and appearance of Jesus. This chapter contains the resurrection with the empty tomb story (vv.1-10) and Jesus’ appearances to Mary Magdalene (vv.11-18), to the disciples without Thomas (vv.19-23), and to the disciples with Thomas (vv.24-29).

· In the preceding passage, Jesus’ body was laid in a new tomb in the garden (19:41). This tomb was probably a horizontal cave with a small ground-level entrance, usually less than a yard high. This explains why the disciple must bend down to look inside (v.5).

· Jesus’ body was not put into a coffin but probably laid in an “arcosolia”, a semi-circle niche, a sort of side-way flat bed formed by cutting two or three feet deep into the side of the cave.

· His body was wrapped in cloth and aromatic oils, and the face was covered with a small piece of cloth. The presence of the cloths in vv.6-7 shows that the body was probably not stolen because thieves would not unwrap and fold the cloths so neatly.

· There are some difficulties within this story, for example, Mary Magdalene went to the tomb alone but in v.2 the pronoun “we” is used. Furthermore, some details are different from the synoptic resurrection accounts.

· “He saw and believed” (v. 8) seems to contradict with “they still did not understand the scripture” (v.9). The most natural explanation is that the beloved disciple believed that Jesus had risen from the dead based on his own observation of the empty tomb rather than on the scripture (See Newman p.606).

Chi Tiết Hay

· Tường thuật ngôi mộ trống này khởi đầu phần cuối của Phúc Âm Gioan, tức chương 20. Phần này gồm: Đức Giêsu phục sinh (cc.1-10) và hiện ra với Maria Mác-đa-la (cc.11-18), các môn đệ không kể Tôma (cc.19-23), và các môn đệ với Tôma (cc.24-29).

· Trong câu 19:41 ở đoạn ngay trước, Đức Giêsu được mai táng trong ngôi mộ tại một thưả vườn. “Ngôi mộ” này có lẽ giống một cái hang, có cửa ra vào cao khoảng một thước; vì thế môn đệ kia đã phải cúi xuống để nhìn vào trong (c.5).

· Thi thể của Đức Giêsu đã không được liệm vào hòm nhưng có lẽ đặt trong một cái “arcosolia”, một cái khe hình bán cung, dược cắt vào ngang vách hang như một chiếc gường, sâu khoảng một thước.

· Thi thể được ướp dầu thơm và có băng vải cuốn bọc, mặt thì che bằng tấm khăn nhỏ. Sự xắp xếp các băng vải và khăn che mặt cho thấy thi thể không bị mất cắp vì kẻ trộm không cởi băng và khăn, xếp gọn gàng, rồi mang cái xác đi không.

· Tường thuật này có những điểm khó hiểu, ví dụ như việc bà Maria Mác-đa-la ra mộ một mình nhưng lại nói với Phêrô là “chúng tôi” (c. 2). Ngoài ra trong đó còn nhiều chi tiết khác biệt với những tường thuật phục sinh trong Phúc Âm Nhất Lãm.

· Câu 9 trong bản dịch mà chúng ta đang dùng của nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ có thể bị hiểu lầm vì nó ám chỉ từ đó “hai ông” đã hiểu Kinh Thánh. Cha Thuấn (và các bản Anh ngữ) dịch là: “Là vì họ chưa hiểu lời Kinh Thánh là Ngài phải sống lại từ cõi chết.” Có ý nói: họ vẫn chưa hiểu Kinh Thánh. Ngoài ra, đại từ “họ” chính xác hơn “hai ông” vì nó có thể bao gồm cả Maria Mác-đa-la nữa.

· Câu 8: “ông đã thấy và đã tin” (theo bản dịch của Cha Thuấn) xem ra trái nghĩa với câu 9: “họ chưa hiểu lời Kinh Thánh”. Giải thích dễ hiểu nhất là người môn đệ nhìn thấy những chứng tích trong ngôi mộ, chứ không dựa theo Kinh Thánh mà tin Đức Giêsu đã sống lại (xem Newman tr.606).

One Main Point

The resurrection is Jesus’ ultimate glory. It is the sign of the victory over death, the hope for us, and the basis for our Christian faith

Một Điểm Chính

Sự phục sinh là vinh quang cao cả nhất của Đức Giêsu. Đó là sự chiến thắng trên sự chết. Đó là nền tảng của Đức Tin Kitô.

Reflections 

1. Imagine that you are standing in front of the empty tomb and looking in, what does the tomb look like? Is it foul? What do you see?

2. Put yourself in Peter’s place: guilt-ridden by his betrayal of Jesus, dispirited by Jesus’ death, and now the body was gone! Have you ever experienced moments when God is absent from your life?

3. The beloved disciples saw the folded linen cloths and believed. Can you recall one specific sign that led you to believe in the Risen Lord?

Suy Niệm 

1. Hình dung bạn đang đứng trước ngôi mộ trống, nhìn vào đó, bạn thấy gì? Ngửi thấy gì?

2. Đặt mình vào chỗ của Phêrô: cắn rứt vì phản bội Thầy, đau khổ vì cái chết của Thầy, và bây giờ ngay cả xác Thầy cũng không còn! Bạn có cảm nghiệm mất Thầy chưa?

3. Người môn đồ Đức Giêsu thương mến nhìn thấy băng vải và khăn và đã tin. Bạn đã có dấu vết bằng chứng cụ thể nào trong đời, để giúp bạn tin vào Đức Kitô Phục sinh?

Audio Học Kinh Thánh Tháng 03-2015

Thứ Tư Ngày 18-03-2015

Thứ Ba Ngày 17-03-2015

Thứ Hai Ngày 16-03-2015

Thứ Bảy Ngày 14-03-2015 – Giải đáp thắc mắc

Thứ Sáu Ngày 13-03-2015

Thứ Năm Ngày 12-03-2015

Thứ Tư Ngày 11-03-2015

Thứ Ba Ngày 10-03-2015

Thứ Hai Ngày 09-03-2015

Thứ Sáu Ngày 06-03-2015

Thứ Năm Ngày 05-03-2015

Thứ Tư Ngày 04-03-2015

Thứ Ba Ngày 03-03-2015

Thứ Hai Ngày 02-03-2015

Audio Bài Giảng Tháng 03-2015

Thứ Ba Ngày 17-03-2015 – Cha Dũng

Thứ Hai Ngày 16-03-2015 – Cha Dũng

Thứ Bảy Ngày 14-03-2015 – Cha Quang

Thứ Sáu Ngày 13-03-2015 – Cha Quang

Cha Dũng

Thứ Năm Ngày 12-03-2015 – Cha Quang

Cha Dũng

Thứ Tư Ngày 11-03-2015 – Cha Quang

Cha Dũng

Thứ Ba Ngày 10-03-2015 – Cha Quang

Cha Dũng

Thứ Hai Ngày 09-03-2015 – Cha Quang

Cha Dũng

Chúa Nhật 3 MC B Ngày 08-03-2015 – Cha Quang

Cha Dũng

Thứ Bảy Ngày 07-03-2015 – Cha Quang

Cha Dũng

Thứ Sáu Ngày 06-03-2015 – Cha Quang

Cha Dũng

Thứ Năm Ngày 05-03-2015 – Cha Quang

Cha Dũng

Thứ Tư Ngày 04-03-2015 – Cha Quang

Cha Dũng

Thứ Ba Ngày 03-03-2015 – Cha Quang

Cha Dũng

Thứ Hai Ngày 02-03-2015 – Cha Quang

Cha Dũng

Chúa Nhật 2 MC Ngày 01-03-2015 – Cha Quang

Cha Dũng